Xét nghiệm di truyền có thể giúp phụ nữ mắc ung thư vú tránh được hóa trị liệu

0
1341
Xét nghiệm di truyền có thể giúp phụ nữ mắc ung thư vú tránh được hóa trị liệu
Xét nghiệm di truyền có thể giúp phụ nữ mắc ung thư vú tránh được hóa trị liệu

Telegraph đã mô tả đây là “tiến bộ lớn nhất trong phòng chống ung thư suốt 20 năm qua”; The Guardian cho biết: “Hàng ngàn bệnh nhân ung thư vú có thể tránh được hóa trị”; và The Daily Mirror ca ngợi đây như là một “sự kiện trọng đại với NHS”. Các tạp chí và các tờ báo uy tín đã dành những lời “có cánh” cho thử nghiệm mới Rx – được gọi là TAILORx. Thử nghiệm đã tạo ra một làn sóng mạnh mẽ khi được trình bày tại Hội nghị thường niên năm 2018 của Hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ tại Chicago vào ngày 3 tháng 6 năm 2018.

Nghiêm cứu TAILORx tập trung vào ung thư vú, căn bệnh ung thư phổ biến nhất ảnh hưởng đến phụ nữ và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai ở phụ nữ tại Anh và Hoa Kỳ.

Nghiên cứu TAILORx tập trung vào dạng phổ biến nhất của ung thư vú – thụ thể hormon (HR) dương tính, nhân tố thụ thể tăng trưởng nội tiết tố 2 ở người (HER2) âm tính, hạch nách (AN) âm tính chiếm khoảng một nửa tất cả các trường hợp của bệnh. Sparano et al. đã tiến hành thử nghiệm giai đoạn III với sự tài trợ của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ. Thử nghiệm tiến hành với 10.273 phụ nữ ở độ tuổi từ 17–75 trong giai đoạn 2006 đến 2010. Tất cả phụ nữ được xét nghiệm Oncotype DX, để dự đoán nguy cơ tái phát ung thư trong vòng 10 năm.

Trước TAILORx, một nửa số ca ung thư vú mới (trên 266.000 bệnh nhân tại Hoa Kỳ và 54.900 ở Anh ) được hóa trị, phương pháp điều trị này gây ra những tác dụng phụ như nôn, buồn nôn, mệt mỏi, rụng tóc, đau thần kinh và gây mãn kinh sớm hoặc vô sinh ở phụ nữ trẻ. Nhưng với kết quả thu được từ TAILORx cho thấy 70% phụ nữ trong nhóm này có thể chỉ cần dự phòng với hóa trị và chỉ có ít hơn 30% có thể cần phải hóa trị sau khi kiểm tra với xét nghiệm di truyền Oncotype DX để đưa ra quyết định điều trị.

Contents

Khai thác di truyền học

Xét nghiệm di truyền có thể giúp phụ nữ mắc ung thư vú tránh được hóa trị liệu

Oncotype DX, được phát triển bởi công ty nghiên cứu di truyền Genomic Health có trụ sở tại California, bằng cách phân tích một mẫu khối u, chúng ta có thể tìm hiểu về hoạt động của 21 gen ảnh hưởng đến những thay đổi trên khối u để đáp ứng lại với một điều trị cụ thể.

Phụ nữ đủ điều kiện thử nghiệm Oncotype DX bao gồm những bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc ung thư vú ở giai đoạn I hoặc II; những người có khối u dương tính với thụ thể estrogen, AN âm tính và những bệnh nhân được tư vấn đang xem xét hóa trị. Những phụ nữ mới được chẩn đoán ung thư tuyến sữa nguyên vị (DCIS) hoặc phẫu thuật cắt bỏ khối u DCIS cũng có thể được cân nhắc. Sau phẫu thuật, phụ nữ có thể giảm nguy cơ tái phát bằng cách điều chỉnh thụ thể estrogen chọn lọc (SERMs), chẳng hạn như tamoxifen, hoặc các chất ức chế aromatase, chẳng hạn như exemestane, letrozole và anastrozole.

Oncotype DX cho biết điểm số về khả năng tái phát (RS): thang điểm từ 0-100. Vời RS dưới 18 có nghĩa là khối u có nguy cơ tái phát thấp và lợi ích của hóa trị liệu có thể sẽ không lớn hơn tác dụng phụ. Với RS ≥18 và ≤30 có nghĩa là khối u có nguy cơ tái phát trung bình, lợi ích và nguy cơ mà liệu hóa trị đem lại là không rõ ràng. Với RS ≥31 có nghĩa là khối u có nguy cơ tái phát cao và lợi ích của hóa trị liệu có thể lớn hơn các tác dụng phụ.

Cơ sở chứng cứ

Crolley et al. báo cáo về điểm nguy cơ tái phát trung bình và các phác đồ hóa trị liệu được cung cấp sau đó có sự thay đổi lớn nhất trong thực tế ở Anh. Loncaster et al. báo cáo rằng việc cá nhân hoá Oncotype DX ở phụ nữ bị ung thư vú và âm tính AN đã làm giảm đáng kể việc sử dụng hóa trị (P <0,001) cùng với tỉ lệ các bệnh liên quan và chi phí kèm theo. Hơn nữa, Holt et al. báo cáo rằng việc xem xét lại hóa trị dựa trên kết quả Oncotype DX có liên quan đến việc cải thiện cả về tỉ lệ sống và chất lượng cuộc sống ở Anh.

Gluz et al. đã báo cáo về một thử nghiệm trên 3,198 phụ nữ (tuổi trung bình 56) dương tính với HR, HER2 âm tính, AN dương tính hoặc có nguy cơ cao ung thư vú giai đoạn sớm (theo dõi trung bình 35 tháng), từ 2009–2011. Nghiên cứu khuyến cáo phụ nữ có điểm RS ≤11 nên tránh hoá trị. Tỷ lệ sống không bệnh trong 3 năm đối với 348 bệnh nhân không sử dụng hóa trị liệu có RS ≤11 là 98%.

Stemmer et al. tiến hành phân tích lâm sàng trên 1.801 phụ nữ (tuổi trung bình 60) với ER dương tính, HER2 âm tính ung thư vú PN0-1 (theo dõi trung bình 6,2 năm) từ 2006–2010. Ở những bệnh nhân có RS <18, nguy cơ ung thư tái phát xa (ung thư đã di căn sang một khu vực khác) là thấp. Tỷ lệ tử vong do ung thư vú cũng thấp. Chỉ điều trị nội tiết (ET) được hỗ trợ ở nhóm bệnh nhân này. Ngoài ra, ở những phụ nữ không được điều trị bằng hóa trị liệu với RS 11–25, tỷ lệ tái phát xa trong 5 năm là rất thấp; hóa trị ít có khả năng đem lại lợi ích lâm sàng ở nhóm bệnh nhân này.

TAILORx: Thử nghiệm bước ngoặt

Trong số 10.273 phụ nữ tham gia thử nghiệm TAILORx, 6.711 người có điểm RS trung bình là 11-25 và được phân ngẫu nhiên chỉ điều trị với ET (tamoxifen thường dùng cho phụ nữ tiền mãn kinh, và phổ biến nhất là thuốc ức chế aromastase cho phụ nữ mãn kinh) hoặc hoá trị liệu (CET, phổ biến nhất là taxane và cyclophosphamide). Mục tiêu căn bản là tỉ lệ sống không bệnh của bệnh nhân (không tái phát ung thư ở vú, hạch bạch huyết vùng và/hoặc các cơ quan ở xa, ung thư thứ hai ở vú đối diện hoặc cơ quan khác, hoặc tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào).

Theo dõi trung bình 7,5 năm, kết quả về tỉ lệ sống không bệnh thu được ở nhóm phụ nữ có RS trung bình 11-25 là không thấp hơn với nhóm CET. Đơn giản, nhóm bệnh nhân này sẽ không được hưởng lợi từ hóa trị và điều trị với ET là hiệu quả trong khi ít độc hại và rẻ hơn.

Phụ nữ có RS ≥26 có nguy cơ tái phát xa 13% mặc dù có hóa trị và ET. Phụ nữ có RS <10 có tỷ lệ tái phát rất thấp khi điều trị với mình ET, bất kể tuổi tác hoặc các yêu tố lâm sàng khác. Ở phụ nữ trong độ tuổi ≤50 với RS từ 16-25 đã cho thấy hóa trị liệu có thể đem lại những lợi ích nhất định.

Những lợi ích về tài chính và sức khỏe mang tính toàn cầu của TAILORx

tránh được một gánh nặng tài chính; hóa trị liệu hiện đang tiêu tốn của NHS khoảng £4.500 cho mỗi bệnh nhân
Tránh được một gánh nặng tài chính; hóa trị liệu hiện đang tiêu tốn của NHS khoảng £4.500 cho mỗi bệnh nhân

Nhờ có thử nghiệm TAILORx, khoảng 5.000 phụ nữ ở Anh có thể tránh được những tác động có hại của hóa trị liệu mỗi năm và NHS cũng có thể tránh được một gánh nặng tài chính; hóa trị liệu hiện đang tiêu tốn của NHS khoảng £4.500 cho mỗi bệnh nhân.

Oncotype DX có sẵn cho NHS với tỷ lệ trợ cấp khoảng £2.580 cho mỗi bệnh nhân và có sẵn ở Hoa Kỳ với giá khoảng US $3.000 cho mỗi bệnh nhân. Đối với ET, năm năm điều trị tamoxifen – ít độc hại hơn nhiều và có giá khoảng 6p cho mỗi bệnh nhân một ngày, vậy chi phí cho mỗi bệnh nhân là £109,50 – £130,00 trong hơn năm năm. Tại Anh, anastrozole có giá khoảng 7p mỗi ngày cho một bệnh nhân và chỉ £127,75 trong hơn năm năm. Ước tính cho thấy rằng nếu phụ nữ Anh điều trị trong 5 năm với tamoxifen, thì có thể cứu thêm 500 mạng sống và có thể tiết kiệm thêm £30m cho ngân sách NHS một năm. Năm 2006, Lønning đã báo cáo rằng tiếp sau 2-3 năm sử dụng tamoxifen là một chất ức chế aromastase với ước tính thấp nhất về chi phí và cao nhất về chất lượng cuộc sống đem lại cho bệnh nhân.

Điều trị cá nhân

TAILORx sẽ cải thiện cuộc sống của những phụ nữ mắc ung thư vú. Các xét nghiệm giúp tiên lượng và/hoặc dự đoán về hướng dẫn điều trị. Thử nghiệm đã khuyến khích cộng đồng khoa học thế giới nhìn về y học chính xác (cá nhân hoá điều trị cho từng bệnh nhân) dưới một góc nhìn mới. Những gì bệnh nhân của chúng tôi nhận được xứng đáng là mô tả đúng nhất trong lời của hoàng đế La Mã và triết gia Stoic Marcus Aurelius: “Cuộc sống không chỉ đơn thuần chỉ là tồn tại, mà còn phải sống tốt”. TAILORx đang giúp thúc đẩy cho quan niệm đó.

Nguồn: https://www.pharmaceutical-journal.com/opinion/insight/how-genetic-testing-can-help-women-with-breast-cancer-avoid-chemotherapy/20205079.article?firstPass=false